Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2016

Trả lời hồ sơ ly hôn khi người cung phi mang thai

Bài viết cùng chủ đề:

Bây chừ em không thể sống với chồng em được nữa, em muốn thực hiện thủ tục ly hôn. Về phần của nả thì khi cưới em bên chồng cho em là đôi hoa tai 2 chỉ quà tay, sợi dây chuyền 5 chỉ tiến thưởng Ý . Nhưng phi tần chồng em đã sử dụng hết 3 chỉ quà Ý. Hiện nay em dang giữ sợi dây chuyền và đôi hoa tai.

Mục đích em muốn được ly hôn và hiện nay vẫn đang mang thai.  Vậy cho em hỏi về việc ly hôn trường hợp của em. Mong trạng sư tư vấn giúp em. Em xin cảm ơn.

Tư vấn:

I.  Căn cứ pháp lý xin ly hôn:

Luật pháp tại Điều 85 Luật hôn nhân mái nhà năm 2000 về Quyền đòi hỏi Toà án khắc phục việc ly hôn chi tiết như sau

1.  Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền đòi hỏi Toà án khắc phục việc ly hôn (Đọc thêm: Chuyên chở mẫu đơn xin ly hôn)

2.  Trong trường thích hợp hoàng hậu có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai 04 tuần tuổi thì chồng không có quyền đòi hỏi xin ly hôn.

Tương tự, chồng của bạn không được quyền yêu cầu ly hôn khi bạn đang có mang. Tuy nhiên, theo pháp luật của yếu tố luật trên, người hoàng hậu vẫn có quyền xin ly hôn trong khi đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi (kể cả trường phù hợp nhì người thuận tình ly hôn). Vì vậy ví như việc tiếp tục phổ biến sống với chồng bạn mà khiến cho ảnh hưởng hiểm nguy đến quyền và lợi ích hợp lí của bạn và/hoặc bào thai trong bụng bạn, thì bạn có quyền nộp đơn xin ly hôn và tòa án sẽ thụ lý và khắc phục.

.

II.  Căn cứ để Tòa bằng lòng yêu cầu ly hôn của bạn:

Luật pháp tại Nhân tố 89 Luật HNGĐ 2000 về Căn cứ cho ly hôn

1.  Toà án chú ý yêu cầu ly hôn, nếu như  xét thấy hiện trạng trầm trọng, đời sống bình thường chẳng thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không thực hiện được thì Toà án quyết định  cho ly hôn.

2.  Trong trường phù hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố bặt tăm xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.”

Về trạng thái trầm trọng, đời sống bình thường chẳng thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được được hướng dẫn chi tiết tại mục số 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP:

a)  Được coi là tình trạng của hiền thê chồng trầm trọng khi:

+   Hậu phi, chồng không thương mến, quý trọng, chăm bẵm, giúp đỡ nhau như bạn nào chỉ nhân thức nghĩa vụ người đó, bỏ mặc người hiền thê hoặc đấng phu quân muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc tập đoàn, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải rộng rãi lần.

+   Phi tần hoặc chồng luôn có hành vi bạc đãi, hành tội nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm tới danh dự, phẩm giá và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc tập đoàn, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải phổ biến lần.

+   Hoàng hậu chồng không bình thường thuỷ với nhau như có quan hệ cặp bồ, đã được người phi tần hoặc đấng phu quân hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, đơn vị, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ bồ bịch;

b)  Để có hạ tầng nhận định đời sống thông thường của phi tần chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào hiện trạng hiện nay của hậu phi chồng đã đến mức trầm trọng như chỉ dẫn tại điểm a.1 mục 8 này.

Ví như thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải rộng rãi lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp diễn có hành vi bạc đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để phản hồi rằng đời sống tầm thường của thê thiếp chồng chẳng thể kéo dài được.

c)  Mục đích của hôn nhân không làm được là không có chung thủy bà xã chồng; không đồng đẳng về bổn phận và quyền giữa hiền thê, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của cung phi, chồng; không hỗ trợ, giúp cho nhau sản xuất mọi mặt.

Theo như bạn trình bày, trong thời điểm quen nhau, sau khi kết hôn, ngay cả khi có mang chồng bạn cũng nhiều lần tấn công đập bạn. Tương tự, mục đích của hôn nhân là xây đắp mái nhà phong lưu, bình đẳng, tiến bộ, êm ấm, bền vững đã không đạt; Quan hệ hôn nhân đã ở vào trạng thái trầm trọng, giữa nhị người đã tồn tại những tranh chấp gay gắt, không thể nhân tố hoà được, tình cảm đã lạnh lùng, không còn thương cảm, quý trọng nhau nữa; Đời sống bình thường của thê thiếp chồng bạn không thể kéo dài hơn nữa. Những mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết bằng quyết định cuối cùng của Toà án cho xong xuôi quan hệ hôn nhân. Bạn đòi hỏi tòa án khắc phục việc ly hôn nên cần cung ứng các chứng cứ thỏa mãn các yếu tố kiện như trên để Tòa có thể hài lòng đòi hỏi xin ly hôn của bạn.

III.  Về việc chia tài sản bình thường khi ly hôn:

Qui định tại Vấn đề 95 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 về Nguyên lý chia tài sản khi ly hôn như sau:

1.  Việc chia của cải khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Của nả riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

2.  Việc chia của cải phổ biến được khắc phục theo các nguyên tắc sau đây:

a)  Tài sản tầm thường của thê thiếp chồng về nguyên lý được chia đôi, nhưng có chú ý cảnh ngộ của mỗi bên, tình trạng tài sản, công huân đóng góp của mỗi bên tham gia việc tạo lập, duy trì, phát triển của cải này. Công huân của bà xã, chồng trong mái nhà được coi như công trạng có doanh thu;

b)  Bảo kê quyền, ích lợi hợp lí của hiền thê, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tật nguyền, mất năng lực hành vi dân sự, không có tài năng công trạng và không có của cải để tự nuôi bản thân;

c)  Kiểm soát an ninh ích lợi chính đại quang minh của mỗi bên trong đóng hộp, kinh doanh và nghề nghiệp để các đối tác có yếu tố kiện tiếp tục công lao tạo doanh thu;

d)  Của cải thông thường của phi tần chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào kiếm được phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần chính mình được lợi thì phải thanh toán cho bên kia phần trị giá không ngang nhau.

3.  Việc thanh toán trách nhiệm chung về của nả của hiền thê, chồng do bà xã, chồng thoả thuận; nếu như không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.”

Như vậy, hoàng hậu chồng bạn có thể tự thỏa thuận chia của cải phổ biến, nếu không tự ký hợp đồng được thì có thể đòi hỏi Tòa án giải quyết.

Về của cải là sợi dây chuyền và đôi hoa tai cha mẹ chồng cho bạn và bạn đang giữ,bạn không nên ghi trong đơn ly hôn là tài sản thông thường. Ví như chồng bạn muốn chia của nả đó thì phải yêu cầu tòa khắc phục.

IV.  Về quyền nuôi con và bổn phận cấp dưỡng cho con sau ly hôn:

Căn cứ Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ, theo đó: “con hình thành trong quá trình hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong giai đoạn hôn nhân được xác định là con chung của hiền thê chồng.”

Như vậy, bạn đang có thai 5 04 tuần trong quá trình hôn nhân nên khi con bạn hình thành vẫn xác định là con phổ biến của hậu phi chồng bạn.

Về quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn:

“Điều 92 Luật HNGĐ 2000 qui định về Việc săn sóc, chăm nom, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

1.  Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông coi, chăm nom, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tật nguyền, mất năng lực hành vi dân sự, không có kỹ năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

2.  Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và bổn phận của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; ví như không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ tham gia quyền lợi về mọi mặt của con; nếu như con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải lưu ý ước vọng của con.

Nguyên lý, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, giả dụ các bên không có thoả thuận khác.

Tương tự, về nguyên tắc, khi con bạn hình thành bạn có quyền trực tiếp nuôi con ví như bạn và chồng bạn không có ký hợp đồng khác.

Trong trường thích hợp bạn trực tiếp nuôi con thì chồng bạn vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng theo luật pháp tại Vấn đề 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Bổn phận cấp dưỡng của phụ thân, mẹ đối với con khi ly hôn

Khi ly hôn, phụ thân hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có kĩ năng công lao và không có của nả để tự nuôi chính mình có bổn phận cấp dưỡng nuôi con.

Mức cấp dưỡng cho con do cha, mẹ thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì đòi hỏi Toà án khắc phục.”

V. Hồ sơ yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn bao gồm:

+   Bản yêu cầu ly hôn;

+   Bản chính giấy đăng ký kết hôn;

+   Bạn dạng sao hộ khẩu;

+   Bản sao chứng minh nhân dân của bà xã và chồng ;

+   Các giấy tờ chứng minh về của nả ;

*   Đối với giấy tờ, tài liệu là bản sao thì cần phải công chứng, chứng thực tại công ty có thẩm quyền.

VI. Thẩm quyền giải quyết việc ly hôn

+   Theo qui định tại Vấn đề 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Toà án là tổ chức có thẩm quyền giải quyết mâu thuẫn về hôn nhân mái ấm, gồm: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; oắt con chấp về đổi mới người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Tranh chấp về cấp dưỡng; Tranh chấp về chia của nả tầm thường của bà xã chồng trong giai đoạn hôn nhân…

+   Cụ thể, Toà án có thẩm quyền khắc phục theo giấy tờ sơ thẩm việc ly hôn là Toà án dân chúng huyện, quận, thị xã, thị trấn thuộc tỉnh nơi một trong các bên ly hôn trú ngụ, làm cho việc (Vấn đề 33 và điểm h khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2011).

Chúc bạn mẹ tròn con vuông và sẽ giải quyết được yếu tố của bản thân.

Trân trọng./.


Đọc thêm: Thủ tục xin giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét